Bữa lỡ, theo như định nghĩa thì là bữa ăn "giữa chừng" hai bữa chính, thường là bữa ăn với mục đích bổ sung năng lượng cho những người lao động chân tay mỏi mệt để có thể làm việc hiệu quả hơn. Có thể xem bữa lỡ ở Huế như cách gọi khác của "ăn xế", "ăn nhẹ" tại nhiều vùng miền khác. Tuy nhiên bữa lỡ ở Huế cố định hơn, có những tính chất riêng biệt và phổ biến hơn.
Bữa lỡ của người Huế thường chỉ các bữa ăn xen kẽ hai bữa chính là bữa trưa và bữa cơm tối, nằm trong khoảng ba giờ chiều. Vào tầm này, như thể đã hẹn trước, những "o" (cách gọi tương tự dì hoặc cô) mang đòn gánh, tay xách nách mang các loại quà bánh sẽ xuất hiện trên khắp các con đường xứ Huế. Và thế là giữa không gian tĩnh lặng ngày trưa lười biếng bỗng chốc vang lên nhiều tiếng rao ngọt ngào, uyển chuyển gây thương nhớ. Thực khách đang nằm giấc trưa nghe được sẽ biết rằng, à, đã đến giờ "ăn lỡ", và nếu thích thì có thể thong thả ra đường tìm chút gì đó để lót dạ và chờ đến bữa cơm tối.
Thời xưa, những "o" bán hàng rong thường sẽ mặc áo dài, áo bà ba, đội nón lá kiểu Huế duyên dáng và cũng có "thương hiệu riêng". Công thức để tìm món quen của người Huế thường là từ "o" kèm theo tên của người phụ nữ đã chế biến ra món ăn đó.
Bữa lỡ ở Huế tuy chỉ là bữa ăn phụ trong ngày nhưng lại dễ tìm, chẳng phải suy nghĩ và cũng chẳng cần phải lên kế hoạch hay chuẩn bị trước. Người ta chỉ nương theo những tiếng rao, tiếng hò mang âm hưởng rất riêng của xứ Kinh Kỳ để lựa chọn các món ngon. Bữa lỡ của người Huế bao gồm những loại thức ăn rất "nhẹ" vì ít béo, ít đạm và không nhiều chất dinh dưỡng để không ảnh hưởng đến khẩu vị vào bữa sau.
Từ trên đòn gánh của những "o" Huế, người ta sẽ thấy cơ man là các loại bánh như bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc, bánh ít ram... Đây là những món bánh "bữa lỡ" rất nổi tiếng xứ Huế, nhưng sang đến nhiều vùng miền khác thì lại được ăn trong nhiều bữa ăn khác chứ không chỉ ăn "lỡ". Những món bánh này đều có đặc điểm chung là rất nhỏ, mảnh và vừa miệng.
Người Huế ăn các món bánh nhỏ như bánh nậm, bánh bèo, bánh bột lọc... trong các bữa lỡ.
Trong đó, phổ biến nhất có lẽ phải kể đến món bánh bèo mặn làm từ bột gạo tẻ, ăn kèm nước mắm ngọt. Bánh nhỏ, mềm dẻo và có một đặc điểm là... ăn bao nhiêu cái cũng chẳng thấy no. Ấy là vì là món ăn bữa lỡ nên bánh bèo cùng nhiều loại bánh khác được "thiết kế" sao cho đủ lót dạ, chống buồn miệng chứ không làm cho no, ảnh hưởng đến khẩu vị bữa tối.
Bữa lỡ ở Huế là văn hoá ăn uống phổ biến của mọi tầng lớp, không phân sang hèn, dù là người dân lao động nghèo hay quý tộc cũng có thói quen ăn "lỡ" nên món ăn cũng rất đa dạng. Trong đó, bánh đúc không nhân ăn cùng mắm nêm ngày xưa được xem là là món bánh "con nhà nghèo", vì có giá rất rẻ nhưng lại đủ no. Còn nhà nào khá giả hơn thường sẽ ăn những món như bánh lá chả tôm. Đây là một loại bánh gần giống bánh nậm, nhưng ăn kèm chả tôm, loại chả tôm tươi được chế biến công phu bằng cách quết nhuyễn cùng gia vị và hấp chín.
Bánh Nậm Huế mỏng và dẹp, được làm từ rất ít bột để ăn nhâm nhi thưởng thức chứ không để ăn no.
Nếu để ý, bạn sẽ thấy những món bánh trong bữa ăn lỡ của người Huế thường "bé tí tẹo" và đôi khi là "chẳng bỏ dính răng". Ví như bánh nậm làm từ bột gạo tẻ, lúc múc bột cho vào lá chuối, người ta chỉ múc một muỗng cà phê bột bé tí rồi trải dẹt ra. Mỗi chiếc bánh này chỉ làm vừa đúng một miếng ăn, có thể cho ngay vào miệng.
Song, người Huế cũng không vì bánh nhỏ mà ăn quá nhanh. Theo như quyển Ẩm Thực Việt Nam và Thế Giới của tiến sĩ Nguyễn Thị Diệu Thảo, người dân xứ Kinh Kỳ có thói quen "ăn lấy hương lấy hoa", nghĩa là ăn để thưởng thức chứ chẳng để no. Văn hoá ăn bữa lỡ đã phản ánh được thói quen này của họ, qua những miếng bánh rất nhỏ không có bao nhiêu giá trị dinh dưỡng, không khiến no được nhưng lại có quá trình chế biến kì công.